Việc hình thành thị trường thương mại hóa tín chỉ carbon của Việt Nam là một trong những bước đi cho tiến trình phát triển bền vững của Việt Nam hiện nay. Theo kế hoạch, Việt Nam đặt mục tiêu thí điểm sàn giao dịch carbon vào năm 2025 và vận hành chính thức vào năm 2028. Việc hình thành thị trường carbon giúp Việt Nam nắm bắt được những cơ hội trong giảm phát thải carbon một cách hiệu quả, tăng khả năng tương thích với các cơ chế định giá carbon quốc tế.
Thương mại hóa tín chỉ cacbon - xu hướng của thế giới
Thị trường carbon trên thế giới bắt nguồn từ Nghị định thư Kyoto của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, được thông qua vào năm 1997. Theo Nghị định thư Kyoto, các quốc gia có dư thừa quyền phát thải được bán cho hoặc mua từ các quốc gia phát thải nhiều hơn hoặc ít hơn mục tiêu cam kết. Từ đó, trên thế giới xuất hiện loại hàng hóa mới là các chứng chỉ giảm/hấp thụ phát thải khí nhà kính.
Việt Nam có tiềm năng lớn trong phát triển tín chỉ carbon rừng
Sau Nghị định thư Kyoto, thị trường carbon đã phát triển mạnh tại các quốc gia châu Âu, châu Mỹ và cả châu Á. Trong đó, châu Âu là nơi tiên phong trong tạo lập và vận hành thị trường giao dịch tín chỉ carbon từ năm 2005 đến nay với mục tiêu kiểm soát và giảm phát thải khí nhà kính.
Thị trường mua bán tín chỉ carbon trên thế giới hiện có hai loại phổ biến là thị trường giao dịch bắt buộc và và thị trường mua bán tự nguyện. Thị trường bắt buộc (mandatory carbon market): Việc mua bán carbon dựa trên cam kết của các quốc gia trong Công ước khung Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC) để đạt được mục tiêu cắt giảm khí nhà kính. Thị trường này mang tính bắt buộc và chủ yếu dành cho các dự án trong cơ chế phát triển sạch (CDM), Cơ chế phát triển bền vững (SDM) hoặc đồng thực hiện (JI).
Thị trường tự nguyện (voluntary carbon market): Nguyên tắc hoạt động của thị trường dựa trên cơ sở hợp tác thỏa thuận song phương hoặc đa phương giữa các tổ chức, công ty hoặc quốc gia. Bên mua tín chỉ tham gia vào các giao dịch trên cơ sở tự nguyện để đáp ứng các chính sách về môi trường, xã hội và quản trị DN (ESG) để giảm dấu chân carbon.
Hiện, ngày càng có sự đồng thuận giữa các chính phủ và doanh nghiệp về vai trò cơ bản của định giá carbon trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế khử carbon. Đối với các chính phủ, định giá carbon là một trong những công cụ của gói chính sách khí hậu cần thiết để giảm phát thải khí nhà kính. Trong hầu hết các trường hợp, nó cũng là một nguồn thu, đặc biệt quan trọng trong môi trường kinh tế hạn chế về ngân sách. Đối với các doanh nghiệp, sử dụng định giá carbon nội bộ để đánh giá tác động của giá carbon bắt buộc đối với hoạt động của họ và như một công cụ để xác định các rủi ro tiềm ẩn về khí hậu và cơ hội doanh thu. Còn các nhà đầu tư dài hạn, sử dụng định giá carbon để phân tích tác động tiềm tàng của các chính sách biến đổi khí hậu đối với danh mục đầu tư của họ, cho phép họ đánh giá lại các chiến lược đầu tư và phân bổ lại vốn cho các hoạt động carbon thấp hoặc thích ứng với khí hậu.
Mô hình ở Việt Nam
Dựa trên kinh nghiệm của châu Âu, trong những năm qua, nhiều khu vực khác trên thế giới bắt đầu học hỏi, xây dựng thị trường và tổ chức các sàn giao dịch, Việt Nam được đánh giá có tiềm năng lớn trong thương mại hóa tín chỉ carbon. Theo kết quả tính toán của các cơ quan chức năng, mỗi năm Việt Nam có thể bán ra thị trường thế giới 57 triệu tín chỉ carbon rừng. Nếu tính theo giá 5 USD/tín chỉ (1 tấn CO2 tương đương 1 tín chỉ carbon) thì mỗi năm Việt Nam có thể thu về hàng trăm triệu USD. Việt Nam, với lợi thế độ che phủ rừng khoảng 42%, cùng với một cộng đồng dân cư khá đông đúc sống nhờ rừng thì việc phát triển, hình thành thị trường carbon rừng trên toàn quốc có tiềm năng rất lớn. Đây là lợi thế để Việt Nam có thể cạnh tranh trên thị trường tín chỉ carbon thế giới. Tín chỉ carbon rừng mới chỉ là một phần của tiềm năng thị trường giao dịch tín chỉ carbon nói chung. Trên thực tế, ngoài rừng, Việt Nam còn có các loại hình như: Biển, năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng... đều tạo ra tín chỉ carbon.
Thị trường mua bán tín chỉ carbon đang dần nóng lên ở Việt Nam, đặc biệt khi Thủ tướng Chính phủ đưa ra cam kết Việt Nam sẽ tiến tới đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Việc xây dựng và vận hành thị trường carbon trong nước đã được Việt Nam triển khai trong những năm gần đây. Dấu mốc quan trọng cho vấn đề này là việc ban hành Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 21/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính; quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ các-bon ra thị trường thế giới; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 của Đảng về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường và Nghị quyết 50-NQ/CP ngày 20/5/2021 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ về thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đã bao gồm xây dựng thị trường carbon trong các nhiệm vụ nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường 2020 và gần đây nhất, để tạo lập khung khổ pháp lý cho vận hành thị trường carbon, Chính phủ đã ban hành Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 về Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ôzôn, đã cụ thể hóa lộ trình thiết lập hệ thống trao đổi hạn ngạch carbon trong nước. Ngày 18/01/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg về Ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, trong đó bao gồm: 1662 cơ sở thuộc ngành Công Thương, 70 cơ sở thuộc ngành Giao thông Vận tải, 104 cơ sở thuộc ngành Xây dựng, 76 cơ sở thuộc ngành Tài nguyên và Môi trường.
Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/ 2022 của Chính về Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ôzôn nêu rõ về tổ chức và phát triển thị trường carbon trong nước. Theo đó, đối tượng tham gia thị trường carbon trong nước gồm: (1) Cơ sở thuộc danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải kiểm kê khí nhà kính do Thủ tướng Chính phủ ban hành; (2) Tổ chức tham gia thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước, quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế Việt Nam là thành viên; (3) Tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ carbon trên thị trường carbon.
Về lộ trình phát triển, thời điểm triển khai thị trường carbon trong nước, giai đoạn đến hết năm 2027: Xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; Xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon; Triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong các lĩnh vực tiềm năng và hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; Thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025; Triển khai các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về phát triển thị trường carbon.
Giai đoạn từ năm 2028: Tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức trong năm 2028; Quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới.
Trong Nghị định cũng quy định việc Xác nhận tín chỉ carbon, hạn ngạch phát thải khí nhà kính được giao dịch trên sàn giao dịch của thị trường carbon trong nước. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường xác nhận tín chỉ carbon, hạn ngạch phát thải khí nhà kính được giao dịch trên sàn, bao gồm: Lượng tín chỉ carbon thu được từ chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ các-bon được giao dịch. Tín chỉ các-bon thu được từ chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon được phép chuyển đổi thành đơn vị bù trừ cho hạn ngạch phát thải khí nhà kính trên sàn giao dịch. 01 tín chỉ carbon bằng 01 tấn CO2 tương đương.
Trong Đấu giá, chuyển giao, vay mượn, nộp trả hạn ngạch phát thải khí nhà kính, sử dụng tín chỉ carbon để bù trừ phát thải khí nhà kính quy định Các cơ sở có thể đấu giá để sở hữu thêm hạn ngạch phát thải khí nhà kính ngoài lượng hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ trong cùng một giai đoạn cam kết; Các cơ sở có thể chuyển giao lượng hạn ngạch phát thải khí nhà kính chưa sử dụng hết trong năm trước sang các năm tiếp theo trong cùng một giai đoạn cam kết; Các cơ sở có thể vay hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ cho năm tiếp theo để sử dụng trong năm trước đó trong cùng một giai đoạn cam kết; Các cơ sở có thể sử dụng tín chỉ carbon từ các dự án thuộc các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon để bù cho lượng phát thải khí nhà kính vượt quá hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ trong một giai đoạn cam kết. Số lượng tín chỉ carbon để bù trừ phát thải không được vượt quá 10% tổng số hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ cho cơ sở; Hạn ngạch phát thải khí nhà kính đã phân bổ sẽ tự động được Bộ Tài nguyên và Môi trường thu hồi khi các cơ sở dừng hoạt động, giải thể hoặc phá sản; Nhà nước khuyến khích các cơ sở tự nguyện nộp trả hạn ngạch phát thải khí nhà kính chưa sử dụng hết góp phần thực hiện mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của quốc gia; Vào cuối mỗi giai đoạn cam kết, các cơ sở phải nộp tiền thanh toán cho lượng phát thải khí nhà kính vượt quá số hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ sau khi áp dụng các hình thức đấu giá, chuyển giao, vay mượn, sử dụng tín chỉ carbon để bù trừ. Ngoài việc phải nộp tiền thanh toán, lượng phát thải khí nhà kính vượt quá lượng hạn ngạch được phân bổ sẽ được trừ vào hạn ngạch phân bổ cho giai đoạn cam kết sau đó; Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn đấu giá, chuyển giao, vay mượn và nộp trả hạn ngạch phát thải khí nhà kính.
Về đăng ký chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về tổ chức đánh giá chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong khuôn khổ Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, chỉ định cơ quan quản lý chuyên ngành về biến đổi khí hậu làm cơ quan thường trực đánh giá.
Trong Trách nhiệm phát triển thị trường các-bon trong nước Nghị định quy định rõ, Bộ Tài chính chủ trì xây dựng, thành lập sàn giao dịch tín chỉ các-bon và ban hành cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động của thị trường carbon. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ liên quan tổ chức vận hành thí điểm và vận hành chính thức sàn giao dịch tín chỉ carbon phục vụ quản lý và theo dõi, giám sát thị trường carbon; quy định các hoạt động kết nối sàn giao dịch tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới; quy định thực hiện các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon; xây dựng tài liệu tuyên truyền, thực hiện các hoạt động tăng cường năng lực cho các đối tượng tham gia thị trường carbon. Ngoài ra, các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính thực hiện các hoạt động thúc đẩy phát triển thị trường carbon; tổ chức phổ biến, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức của cộng đồng về thị trường carbon.
Hình thành thị trường carbon trong nước giúp Việt Nam nắm bắt được những cơ hội trong giảm phát thải carbon hiệu quả, tăng khả năng tương thích với các cơ chế định giá carbon quốc tế, tạo cơ hội liên kết với thị trường carbon trên thế giới, trong khu vực và tăng tính cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, thị trường carbon còn là một cơ chế tạo nguồn lực để thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ phát thải thấp, hướng đến nền kinh tế trung hòa carbon./.
Theo: Nhàn Thư, Tạp chí Con số & Sự kiện
Việc hình thành thị trường thương mại hóa tín chỉ carbon của Việt Nam là một trong những bước đi cho tiến trình phát triển bền vững của Việt Nam hiện nay. Theo kế hoạch, Việt Nam đặt mục tiêu thí điểm sàn giao dịch carbon vào năm 2025 và vận hành chính thức vào năm 2028. Việc hình thành thị trường carbon giúp Việt Nam nắm bắt được những cơ hội trong giảm phát thải carbon một cách hiệu quả, tăng khả năng tương thích với các cơ chế định giá carbon quốc tế.
Thương mại hóa tín chỉ cacbon - xu hướng của thế giới
Thị trường carbon trên thế giới bắt nguồn từ Nghị định thư Kyoto của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, được thông qua vào năm 1997. Theo Nghị định thư Kyoto, các quốc gia có dư thừa quyền phát thải được bán cho hoặc mua từ các quốc gia phát thải nhiều hơn hoặc ít hơn mục tiêu cam kết. Từ đó, trên thế giới xuất hiện loại hàng hóa mới là các chứng chỉ giảm/hấp thụ phát thải khí nhà kính.
Việt Nam có tiềm năng lớn trong phát triển tín chỉ carbon rừng
Sau Nghị định thư Kyoto, thị trường carbon đã phát triển mạnh tại các quốc gia châu Âu, châu Mỹ và cả châu Á. Trong đó, châu Âu là nơi tiên phong trong tạo lập và vận hành thị trường giao dịch tín chỉ carbon từ năm 2005 đến nay với mục tiêu kiểm soát và giảm phát thải khí nhà kính.
Thị trường mua bán tín chỉ carbon trên thế giới hiện có hai loại phổ biến là thị trường giao dịch bắt buộc và và thị trường mua bán tự nguyện. Thị trường bắt buộc (mandatory carbon market): Việc mua bán carbon dựa trên cam kết của các quốc gia trong Công ước khung Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC) để đạt được mục tiêu cắt giảm khí nhà kính. Thị trường này mang tính bắt buộc và chủ yếu dành cho các dự án trong cơ chế phát triển sạch (CDM), Cơ chế phát triển bền vững (SDM) hoặc đồng thực hiện (JI).
Thị trường tự nguyện (voluntary carbon market): Nguyên tắc hoạt động của thị trường dựa trên cơ sở hợp tác thỏa thuận song phương hoặc đa phương giữa các tổ chức, công ty hoặc quốc gia. Bên mua tín chỉ tham gia vào các giao dịch trên cơ sở tự nguyện để đáp ứng các chính sách về môi trường, xã hội và quản trị DN (ESG) để giảm dấu chân carbon.
Hiện, ngày càng có sự đồng thuận giữa các chính phủ và doanh nghiệp về vai trò cơ bản của định giá carbon trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế khử carbon. Đối với các chính phủ, định giá carbon là một trong những công cụ của gói chính sách khí hậu cần thiết để giảm phát thải khí nhà kính. Trong hầu hết các trường hợp, nó cũng là một nguồn thu, đặc biệt quan trọng trong môi trường kinh tế hạn chế về ngân sách. Đối với các doanh nghiệp, sử dụng định giá carbon nội bộ để đánh giá tác động của giá carbon bắt buộc đối với hoạt động của họ và như một công cụ để xác định các rủi ro tiềm ẩn về khí hậu và cơ hội doanh thu. Còn các nhà đầu tư dài hạn, sử dụng định giá carbon để phân tích tác động tiềm tàng của các chính sách biến đổi khí hậu đối với danh mục đầu tư của họ, cho phép họ đánh giá lại các chiến lược đầu tư và phân bổ lại vốn cho các hoạt động carbon thấp hoặc thích ứng với khí hậu.
Mô hình ở Việt Nam
Dựa trên kinh nghiệm của châu Âu, trong những năm qua, nhiều khu vực khác trên thế giới bắt đầu học hỏi, xây dựng thị trường và tổ chức các sàn giao dịch, Việt Nam được đánh giá có tiềm năng lớn trong thương mại hóa tín chỉ carbon. Theo kết quả tính toán của các cơ quan chức năng, mỗi năm Việt Nam có thể bán ra thị trường thế giới 57 triệu tín chỉ carbon rừng. Nếu tính theo giá 5 USD/tín chỉ (1 tấn CO2 tương đương 1 tín chỉ carbon) thì mỗi năm Việt Nam có thể thu về hàng trăm triệu USD. Việt Nam, với lợi thế độ che phủ rừng khoảng 42%, cùng với một cộng đồng dân cư khá đông đúc sống nhờ rừng thì việc phát triển, hình thành thị trường carbon rừng trên toàn quốc có tiềm năng rất lớn. Đây là lợi thế để Việt Nam có thể cạnh tranh trên thị trường tín chỉ carbon thế giới. Tín chỉ carbon rừng mới chỉ là một phần của tiềm năng thị trường giao dịch tín chỉ carbon nói chung. Trên thực tế, ngoài rừng, Việt Nam còn có các loại hình như: Biển, năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng... đều tạo ra tín chỉ carbon.
Thị trường mua bán tín chỉ carbon đang dần nóng lên ở Việt Nam, đặc biệt khi Thủ tướng Chính phủ đưa ra cam kết Việt Nam sẽ tiến tới đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Việc xây dựng và vận hành thị trường carbon trong nước đã được Việt Nam triển khai trong những năm gần đây. Dấu mốc quan trọng cho vấn đề này là việc ban hành Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 21/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính; quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ các-bon ra thị trường thế giới; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 của Đảng về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường và Nghị quyết 50-NQ/CP ngày 20/5/2021 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ về thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đã bao gồm xây dựng thị trường carbon trong các nhiệm vụ nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường 2020 và gần đây nhất, để tạo lập khung khổ pháp lý cho vận hành thị trường carbon, Chính phủ đã ban hành Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 về Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ôzôn, đã cụ thể hóa lộ trình thiết lập hệ thống trao đổi hạn ngạch carbon trong nước. Ngày 18/01/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg về Ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, trong đó bao gồm: 1662 cơ sở thuộc ngành Công Thương, 70 cơ sở thuộc ngành Giao thông Vận tải, 104 cơ sở thuộc ngành Xây dựng, 76 cơ sở thuộc ngành Tài nguyên và Môi trường.
Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/ 2022 của Chính về Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ôzôn nêu rõ về tổ chức và phát triển thị trường carbon trong nước. Theo đó, đối tượng tham gia thị trường carbon trong nước gồm: (1) Cơ sở thuộc danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải kiểm kê khí nhà kính do Thủ tướng Chính phủ ban hành; (2) Tổ chức tham gia thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước, quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế Việt Nam là thành viên; (3) Tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ carbon trên thị trường carbon.
Về lộ trình phát triển, thời điểm triển khai thị trường carbon trong nước, giai đoạn đến hết năm 2027: Xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; Xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon; Triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong các lĩnh vực tiềm năng và hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; Thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025; Triển khai các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về phát triển thị trường carbon.
Giai đoạn từ năm 2028: Tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức trong năm 2028; Quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới.
Trong Nghị định cũng quy định việc Xác nhận tín chỉ carbon, hạn ngạch phát thải khí nhà kính được giao dịch trên sàn giao dịch của thị trường carbon trong nước. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường xác nhận tín chỉ carbon, hạn ngạch phát thải khí nhà kính được giao dịch trên sàn, bao gồm: Lượng tín chỉ carbon thu được từ chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ các-bon được giao dịch. Tín chỉ các-bon thu được từ chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon được phép chuyển đổi thành đơn vị bù trừ cho hạn ngạch phát thải khí nhà kính trên sàn giao dịch. 01 tín chỉ carbon bằng 01 tấn CO2 tương đương.
Trong Đấu giá, chuyển giao, vay mượn, nộp trả hạn ngạch phát thải khí nhà kính, sử dụng tín chỉ carbon để bù trừ phát thải khí nhà kính quy định Các cơ sở có thể đấu giá để sở hữu thêm hạn ngạch phát thải khí nhà kính ngoài lượng hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ trong cùng một giai đoạn cam kết; Các cơ sở có thể chuyển giao lượng hạn ngạch phát thải khí nhà kính chưa sử dụng hết trong năm trước sang các năm tiếp theo trong cùng một giai đoạn cam kết; Các cơ sở có thể vay hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ cho năm tiếp theo để sử dụng trong năm trước đó trong cùng một giai đoạn cam kết; Các cơ sở có thể sử dụng tín chỉ carbon từ các dự án thuộc các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon để bù cho lượng phát thải khí nhà kính vượt quá hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ trong một giai đoạn cam kết. Số lượng tín chỉ carbon để bù trừ phát thải không được vượt quá 10% tổng số hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ cho cơ sở; Hạn ngạch phát thải khí nhà kính đã phân bổ sẽ tự động được Bộ Tài nguyên và Môi trường thu hồi khi các cơ sở dừng hoạt động, giải thể hoặc phá sản; Nhà nước khuyến khích các cơ sở tự nguyện nộp trả hạn ngạch phát thải khí nhà kính chưa sử dụng hết góp phần thực hiện mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của quốc gia; Vào cuối mỗi giai đoạn cam kết, các cơ sở phải nộp tiền thanh toán cho lượng phát thải khí nhà kính vượt quá số hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ sau khi áp dụng các hình thức đấu giá, chuyển giao, vay mượn, sử dụng tín chỉ carbon để bù trừ. Ngoài việc phải nộp tiền thanh toán, lượng phát thải khí nhà kính vượt quá lượng hạn ngạch được phân bổ sẽ được trừ vào hạn ngạch phân bổ cho giai đoạn cam kết sau đó; Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn đấu giá, chuyển giao, vay mượn và nộp trả hạn ngạch phát thải khí nhà kính.
Về đăng ký chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về tổ chức đánh giá chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong khuôn khổ Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, chỉ định cơ quan quản lý chuyên ngành về biến đổi khí hậu làm cơ quan thường trực đánh giá.
Trong Trách nhiệm phát triển thị trường các-bon trong nước Nghị định quy định rõ, Bộ Tài chính chủ trì xây dựng, thành lập sàn giao dịch tín chỉ các-bon và ban hành cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động của thị trường carbon. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ liên quan tổ chức vận hành thí điểm và vận hành chính thức sàn giao dịch tín chỉ carbon phục vụ quản lý và theo dõi, giám sát thị trường carbon; quy định các hoạt động kết nối sàn giao dịch tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới; quy định thực hiện các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon; xây dựng tài liệu tuyên truyền, thực hiện các hoạt động tăng cường năng lực cho các đối tượng tham gia thị trường carbon. Ngoài ra, các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính thực hiện các hoạt động thúc đẩy phát triển thị trường carbon; tổ chức phổ biến, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức của cộng đồng về thị trường carbon.
Hình thành thị trường carbon trong nước giúp Việt Nam nắm bắt được những cơ hội trong giảm phát thải carbon hiệu quả, tăng khả năng tương thích với các cơ chế định giá carbon quốc tế, tạo cơ hội liên kết với thị trường carbon trên thế giới, trong khu vực và tăng tính cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, thị trường carbon còn là một cơ chế tạo nguồn lực để thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ phát thải thấp, hướng đến nền kinh tế trung hòa carbon./.
Theo: Nhàn Thư, Tạp chí Con số & Sự kiện